Bài bào chữa trong vụ án Vận chuyển trái phép chất ma túy của Luật sư Nguyễn Trọng Việt

Tóm tắt nội dung vụ án: Nguyễn Thị Hằng và Lê Thị Tám là chị em dâu, trong một lần về quê thì Nguyễn Thị Hằng được Lê Thị Tám rủ vận chuyển thuê 6 bánh heroin từ SƠn La xuống Hà Nội để nhận 20 triệu tiền công. Ngay khi hai chị em vưa xuống đến Hà Nội thì bị cơ quan Công an bắt giữ.

Nội dung chi tiết mời khách hàng xem tại bài viết tại mục luật sư tranh tụng của Luật tầm nhìn Viets

Dưới đây là tóm tắt bài bào chữa của Luật sư Nguyễn Trọng Việt, Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Thị Tám tại phiên tòa sơ thẩm.

Kính thưa HĐXX!

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, và qua phần xét hỏi công khai tại phiên toà ngày hôm nay tôi nhận thấy: Lời khai của bị cáo Lê Thị Tám phù hợp với lời khai của Bị Cáo Nguyễn Thị Hằng – là đồng phạm trong vụ án, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án.  Và hơn nữa Bị cáo cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tuy nhiên tôi xin trình bày một số tình tiết, căn cứ dưới đây  Kính đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Thứ nhất, trong suốt quá trình Điều tra, truy tố và xét xử Bị cáo Lê Thị Tám đã thành khẩn khai báo góp phần giúp Cơ quan điều tra sớm làm rõ sự thật, kết thúc vụ án; Bị cáo cũng đã nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải qua đó mong muốn được sự khoan hồng của Pháp luật.

Vì vậy đề nghị HĐXX áp dụng điểm p, khoản 1 Điều 46 BLHS: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Thứ hai, trong quá trình điều tra vụ án, Bị cáo Lê Thị Tám đã viết đơn tố giác đối tượng mua bán trái phép chất ma túy mà Tám biết, tạo căn cứ cho Cơ quan điều tra xác minh và đã bắt giữ được đối tượng này. Do đó đề nghị HĐXX áp dụng các điểm q, r khoản 1 Điều 46 BLHS đối với bị cáo:

q, người phạm tội tích cự giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm.

r, Người phạm tội đã lập công chuộc tội

Thứ ba, về  nhân thân và hoàn cảnh gia đình của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, đây là lần đầu phạm tội. Trước khi bị bắt bị cáo đã ly hôn (chồng lấy vợ hai); bị cáo không nghề nghiệp nhưng một mình nuôi hai con, con lớn sinh năm 2009, bé sinh năm 2012 nên hoàn cảnh hết sức khó khăn, túng quẫn nên làm liều đã nhận lời vận chuyển ma túy cho đối tượng Ngọc. Sau khi bị cáo Tám bị bắt các cháu đang được Bác ruột nuôi dưỡng, chăm sóc. Vì vậy đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 46 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Theo phân tích trên thì bị cáo Lê Thị Tám có 3 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS, và tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 46 BLHS.

Từ đó căn cứ điểm c tiểu mục 3.3 mục 3 Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/03/2001 của HĐTP tòa án nhân dân tối cao quy định:

3.3. Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án được hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 Mục 3 này như sau:

…. c. Xử phạt tù chung thân nếu trọng lượng chất ma tuý thuộc điểm c tiểu mục 3.1 Mục 3 này.

Dẫn chiếu điểm c tiểu mục 3.1 mục 3: c. Xử phạt tử hình nếu:- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ sáu trăm gam trở lên;

Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng điểm p, q, r khoản 1 khoản 2 Điều 46 BLHS; điểm c, tiểu mục 3.3 mục 3 Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao tuyên bị cáo chung thân, và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Theo điểm b, khoản 4 Điều 194 BLS 1999 với lượng ma túy từ 100g trở lên bị có thể bị tuyên án tử hình.

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Đăng ký
Notify of
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận